Nỗi sợ hãi về dịch bệnh và thực tế khắc nghiệt của sinh học tôm đã dẫn đến sự gia tăng của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng – và sự sụt giảm đồng thời của nghề nuôi tôm sú.
Những rủi ro lớn nhất về ô nhiễm dịch bệnh đối với người nuôi tôm là các ao bị nhiễm bệnh lân cận – đặc biệt là ở môi trường ven biển hoặc ven sông, nơi có chung nguồn nước – và đưa tôm hậu ấu trùng (PL) bị bệnh vào. Để tránh điều sau này, việc sử dụng PL không chứa mầm bệnh cụ thể (SPF) được coi là thực hành tốt và điều này đã được thực hiện rộng rãi, mặc dù chưa đầy đủ, đối với vannemei.
Một vấn đề cuối cùng đối với chăn nuôi tôm sú là tốc độ tăng trưởng ở các dòng nuôi nhốt dường như giảm. Điều này có thể là do giao phối cận huyết, khả năng tồn tại kém của PL từ tôm sinh ra trong môi trường nuôi nhốt, hoặc có thể do nhiễm virus RNA. Ở đây cần phải nhớ rằng SPF đề cập đến việc không có “mầm bệnh cụ thể”, không phải tất cả các mầm bệnh hoặc vi rút.
Khắc phục hiện tượng tôm sú chậm lớn
Tôm sú chậm lớn là do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể tôm giống nhiễm bệnh còi do MBV (Monodon Baculovirus) hoặc HPV (Hepatopancreatic parvovirus) hoặc bị Hội chứng chậm lớn trên tôm sú LSNV (Laem singh virus). Ngoài ra, sử dụng tôm bố mẹ không đảm bảo chất lượng, lạm dụng kháng sinh trong quá trình nuôi cũng là nguyên nhân khiến tôm chậm lớn.
Để khắc phục, người nuôi cần thực hiện các giải pháp sau:
Tôm giống chọn mua ở các cơ sở có uy tín chất lượng, đạt yêu cầu thả nuôi (kích cỡ PL15) và phải có kiểm dịch của cơ quan có thẩm quyền.
Duy trì mật độ thả nuôi phù hợp.
Trong quá trình nuôi cần định kỳ sử dụng các chế phẩm sinh học và sản phẩm dinh dưỡng tăng sức đề kháng.
Ổn định môi trường ao nuôi bằng cách quản lý tốt các yếu tố chất lượng (ôxy hòa tan, pH, độ kiềm), sử dụng sản phẩm vi sinh làm sạch môi trường; thay nước định kỳ để cung cấp ôxy và thức ăn tự nhiên cho tôm; duy trì chế độ quạt nước, mực nước hợp lý (trên 1,2 m); quản lý thức ăn chặt chẽ, tránh thức ăn dư thừa.
Chọn thức ăn có chất lượng tốt, bảo quản đúng kỹ thuật, tính toán lượng thức ăn phù hợp. Định kỳ bổ sung vitamin và khoáng chất vào trong thức ăn. Đồng thời, áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp trên tôm nuôi. Khi xảy ra dịch bệnh cần tìm hiểu rõ nguyên nhân để đưa ra liệu trình điều trị phù hợp.
Tôm sú ăn ít, di chuyển chậm, trên vỏ tôm xuất hiện màu xám bẩn
Với những triệu chứng trên có thể tôm sú bị bệnh đóng rong. Bệnh do một vài nhóm hay rất nhiều nhóm sinh vật cùng gây ra. Như: vi khuẩn dạng sợi, nấm, nguyên sinh động vật hay tảo… Các mầm bệnh này có thể phát sinh từ môi trường nuôi. Hiện tượng này thường xuất hiện ở những con tôm có những sức khỏe kém. Bởi lúc này, tôm yếu không thể tự làm sạch cơ thể hay lột xác được bình thường. Khi bị bệnh, khắp bề mặt cơ thể tôm dơ bẩn. Đóng rong, nhớt. Tùy từng tác nhân gây bệnh mà cơ thể tôm. Phụ bộ sẽ mang những màu sắc khác nhau. Khi bệnh nặng, tôm lờ đờ, di chuyển chậm chạp trên mặt nước hoặc mé ao.
Bệnh xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau nên cần phải quan tâm. Đến các dấu hiệu ban đầu để xử lý kịp thời nhất. Việc đầu tiên cần làm là giảm ngay lượng thức ăn từ 5 – 10% kết hợp với trộn Vitamin C. Tạt khoáng chất giúp tăng sức đề kháng và kích thích quá trình lột vỏ cứng. Tiến hành cải tạo nước ao nuôi, cho tôm ăn thức ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Cung cấp đầy đủ ôxy sẽ giúp tôm dễ dàng lột xác hơn. Mặt khác, người nuôi nên sử dụng men vi sinh định kỳ. Quản lý chất lượng nước ao tốt, ổn định tảo trong ao nuôi nhằm đảm bảo nhu cầu ôxy cho tôm.
Nguồn: Nhanongxanh.vn