Đã có lịch sử lâu dài về việc bùng phát dịch bệnh và thiệt hại kinh tế ở các loài cá chép hoang dã và cá nuôi do SVCV. Trước đây được cho là chỉ giới hạn ở châu Âu và châu Á, SVCV lần đầu tiên được phát hiện ở Bắc Mỹ từ cá koi bị bệnh tại một trang trại cá ở Bắc Carolina vào năm 2002, và đã có những nỗ lực tiêu diệt trên diện rộng với 135.000 con cá bị giết chết ngoài khoảng 15.000 con đã chết khỏi bệnh.
Kể từ đó, 9 lần phát hiện hoặc bùng phát SVCV tiếp theo đã xảy ra ở Bắc Mỹ với dịch bệnh cá mới nhất vào năm 2010 xảy ra không chỉ ở các loài cá chép, mà còn được báo cáo lần đầu tiên từ các loài cá centrachid (bluegill và cá vược miệng lớn) và vào năm 2015 lần đầu tiên xảy ra sự phân lập từ một loài lưỡng cư nhập nội (kỳ nhông). Vì vậy, loại virus kỳ lạ này được coi là mối đe dọa đối với các quần thể cá bản địa và giờ đây cũng là nguy cơ tiềm ẩn đối với các loài lưỡng cư ở Bắc Mỹ. Và sau đây là một số bệnh liên quan đến cá chép ở Việt Nam.
Cá chép xuất huyết, mắt lồi
Cá chép có dấu hiệu mắt lồi, vây, đuôi bị cụt, cá bơi lội không định hướng, mang xuất huyết. Hỏi đây là triệu chứng của bệnh gì và biện pháp khắc phục ra sao?
Theo mô tả, cá chép có thể bị bệnh virus mùa xuân. Nguyên nhân là do virus Rhabdovirus carpio gây ra, chúng có dạng hình que, một đầu tròn như viên đạn, chiều dài 90 – 180 nm, rộng 60 – 90 nm. Bệnh chủ yếu gặp ở cá chép, virus gây bệnh từ giai đoạn cá giống đến cá thịt. Ngoài ra còn gặp ở một số loài cá khác như mè trắng, mè hoa, cá diếc, cá nheo. Hiện đã có vaccine cho bệnh này, tuy nhiên hiệu quả còn thấp và giá thành khá cao. Vì vậy, đề điều trị bệnh, cần trộn một trong các loại thuốc kháng sinh sau: Enrofloxacine, Amoxicillin… với liều lượng 2 g/kg thức ăn, cho cá ăn liên tục trong 3 – 5 ngày.
Thực hiện các biện pháp phòng bệnh tổng hợp như xử lý đáy ao bằng vôi bột 7 – 10 kg/100 m2 trước khi nuôi. Thả giống đúng thời vụ, không nuôi mật độ dày. Tắm cá giống qua nước muối 2 – 4 g/lít nước trước khi thả. Thay nước hoặc đảo nước trong ao khi thời tiết thay đổi. Định kỳ dùng chế phẩm sinh học như EMC, Bio-DW tạt xuống ao với lượng 1 – 2 lít/1.000 m³. Hoặc dùng EMC-tỏi, trộn với thức ăn tinh cho cá ăn 3 – 4 ngày/tháng. Tạt muối xuống ao (2 kg/1.000 m³ nước, những ao rộng có thể treo túi vôi hoặc muối tại điểm cho ăn).
Biện pháp điều trị bệnh kênh mang trên cá chép
Bệnh kênh mang là một bệnh lây truyền giữa người, gia súc. Gia cầm và cá do ấu trùng sán lá Centrocestus fomorsanus gây ra. Do ấu trùng sán nằm trong bọc ở các tơ mang nên hầu hết các hóa chất. Thông thường dùng để diệt ký sinh trùng cá như formaline, CuSO4, muối ăn. Thuốc tím đều không diệt được ấu trùng. Để điều trị bệnh, cần sử dụng Praziquantel với liều lượng 50 – 75 mg/kg thức ăn.
Một liệu trình cho ăn trong 3 – 5 ngày, lượng thức ăn cho cá khoảng 10 – 15% trọng lượng cơ thể. Trong 1 – 2 ngày đầu trộn thuốc cá ăn ít, sau ăn tăng dần. Sau điều trị 2 – 3 ngày biểu hiện kênh mang sẽ giảm (nắp mang khép kín lại). Cá hoạt động nhanh nhẹn trở lại, tại mang các ấu trùng bị tiêu diệt. Lưu ý, khi trộn thuốc Praziquantel vào thức ăn. Cần có chất kết dính để thuốc không tan vào nước trước khi vào cơ thể cá.
Nguồn: Thuysanvietnam.com