Cá Trắm cỏ là một loài cá chép phổ biến được nuôi trên khắp thế giới. Sản lượng được báo cáo lớn nhất của nó là hơn năm triệu tấn mỗi năm trên toàn cầu.
Nó có nguồn gốc từ Đông Á, và là một loài cá nước ngọt ăn cỏ lớn thuộc họ Cyprinidae. Và nó là loài duy nhất của chi Ctenopharyngodon. Phạm vi bản địa của nó là từ miền bắc Việt Nam đến sông Amur trên biên giới Siberia-Trung Quốc.
Mục lục
Nguồn gốc cá trắm cỏ
Cá trắm cỏ được nuôi ở Trung Quốc từ lâu đời để làm thực phẩm. Nhưng nó cũng đã được giới thiệu ở Hoa Kỳ và Châu Âu để kiểm soát cỏ dại dưới nước.
Loài cá này chủ yếu được tìm thấy trên các sông đục và các hồ đồng bằng ngập lũ. Nó còn được gọi là White Amur ở Hoa Kỳ (có nguồn gốc từ sông Amur. Nơi loài cá này có lẽ là bản địa nhưng chưa bao giờ có nhiều). Nhưng không nên nhầm lẫn với cá tráp Amur trắng. Chúng không phải là họ hàng đặc biệt gần.
Loài cá Trắm cỏ đã được du nhập vào nhiều nước và có mặt trên khắp thế giới. Trong hệ thống nuôi thuỷ sản nước ngọt đã và đang phát triển mạnh. Cả về diện tích nuôi, đối tượng nuôi, hình thức nuôi.
Tuy nhiên, việc biến đổi khí hậu ngày càng trở nên phức tạp, môi trường nuôi bị ô nhiễm trầm trọng. Bệnh trên cá mỗi ngày càng phát triển, trong khi đó nguời nuôi vẫn đang còn nuôi theo kinh nghiệm là chính. Việc phòng bệnh cho cá vẫn chưa được quan tâm đúng mức, nên trong quá trình nuôi. Mỗi khi cá bị bệnh việc chữa trị còn lúng túng gây thiệt hại lớn đến kinh tế hộ.
Đối tượng cá trẳm cỏ nuôi ở sông hồ
Các đối tượng nuôi truyền thống lâu nay như mè, trôi, trắm, chép vẫn được duy trì và thả nuôi với nhiều hình thức như: nuôi chuyên, xen ghép, lồng bè.v.v..do được thị trường ưa chuộng. Thịt thơm ngon, chi phí thấp, nên cá trắm cỏ vẫn là đối tượng được các hộ chọn nuôi thả chính trong ao, lồng.
Tuy nhiên, nghề nuôi cá trắm cỏ vẫn gặp phải khó khăn lớn nhất đó là dịch bệnh. Đặc biệt bệnh xuất huyết đốm đỏ do vi khuẩn và vi rút gây thiệt hại lớn nhất đối với nghề này. Về mùa vụ, thông thường cá phát bệnh khi nhiệt độ nước từ 25 – 32 độ C, xuất hiện vào cuối Xuân đầu Hè ( từ tháng 3 đến tháng 5 ) và mùa thu từ tháng 8 đến tháng 10.
Bệnh đốm đỏ ở cá trắm cỏ thể hiện ở hai dạng đó là xuất huyết đóm dỏ do vi khuẩn và vi rút gây ra. Đối với cá bị bệnh bà con cần phân biệt một cách chính xác những dấu hiệu bệnh lý đặc trưng của từng loại để đưa ra biện pháp xử lý kịp thời.
Kỹ thuật nuôi cá trắm cỏ
Tẩy dọn ao
Tát hoặc tháo cạn, dọn sạch cỏ, tu sửa bờ, đăng cống, vét bùn nếu lượng bùn quá nhiều. Bón vôi khắp đáy ao để diệt cá tạp và các mầm bệnh bằng cách rải đều từ 7 đến 10 kg vôi bột cho 100 mét vuông đáy ao.
Sau tẩy vôi 3 ngày, bón lót bằng cách rải đều khắp ao từ 20 – 30 kg phân chuồng; và 50 kg lá xanh cho 100 mét vuông (loại lá cây thân mềm để làm phân xanh). Lá xanh được băm nhỏ rải đều khắp đáy ao, vùi vào bùn hoặc bó thành các bó nhỏ từ 5 đến 7 kg dìm ở góc ao.
Lấy nước vào ao ngập từ 0,3 – 0,4 mét, ngâm 5 đến 7 ngày; vớt hết bã xác phân xanh, lấy nước tiếp vào ao đạt độ sâu 1 mét. Cần phải lọc nước vào ao bằng đăng hoặc lưới đề phòng cá dữ, cá tạp xâm nhập.
Thả cá giống
– Có 2 thời kỳ thả cá giống :
Vụ xuân từ tháng 2 đến tháng 3;
Vụ thu từ tháng 8 đến tháng 9. – Cần thả cá giống lớn, khoẻ mạnh, không sây xát, không có bệnh.
– Mật độ thả từ 1 – 2 con cho 1 mét vuông. Cỡ cá thả 8-10cm 3. Quản lý – chăm sóc ao
Thức ăn: Thức ăn xanh gồm : các loại cỏ, rong, bèo tấm, bèo dâu, lá chuối, lá sắn nên cho cá ăn đủ hàng ngày. Sau khi cá ăn cần vớt bỏ các cọng cỏ, cây, lá già cá không ăn được. Cho cá ăn thêm cám gạo, cám ngô… Cứ 100 con cho ăn từ 2 đến 3 kg thức ăn xanh, sau tăng dần theo sự lớn lên của cá bằng cách theo dõi hằng ngày.
Muốn tăng trọng 1kg thịt cá trắm cỏ cần từ 30-40kg thức ăn xanh như: rong, cỏ, bèo…Với cỏ tươi cho ăn 30-40% trọng lượng thân; với rong, bèo cho ăn 70% trọng lượng thân.
Quản lý ao
– Theo dõi thường xuyên bờ ao, cống thoát nước, xem mực nước ao vào các buổi sáng.
– Vào sáng sớm theo dõi xem cá có bị nổi đầu vì ngạt thở không, cá có nổi đầu kéo dài không. Nếu có, tạm dừng cho ăn và thêm nước vào ao.
– Khi thấy cá bị bệnh hoặc chết rải rác cần hỏi cán bộ kỹ thuật hoặc khuyến ngư để biết cách xử lý.
Thu hoạch
– Sau 5 đến 6 tháng nuôi có thể đánh tỉa số cá lớn để ăn; hoặc bán và thả bù cá giống để tăng năng suất nuôi. Phải ghi lại số lượng cá đã thu và thả lại sau mỗi lần đánh tỉa (ghi cả số con và số kg cá).
– Cuối năm thu toàn bộ cá (có thể chọn những cá nhỏ giữ lại làm giống cho vụ nuôi sau). Sau khi thu hoạch toàn bộ phải ghi lại sản lượng cá thu được (bao gồm cả cá đánh tỉa và cá thu cuối năm) nhằm sơ bộ hạch toán trong quá trình nuôi để có cơ sở cho đầu tư tiếp ở vụ nuôi sau.
Nguồn: Nuoitrong123.com