Cá tra là nguồn xuất khẩu quan trọng đang được nhà nước chú tâm phát triển. Để xuất khẩu được, nguồn cá cần phải đáp ứng được đầy để các chỉ tiêu về VSATTP. Vì thế nắm bắt quy trình nuôi cá tra an toàn sinh học là điều cần thiết cho bà con. Sau đây là quy trình kỹ thuật nuôi cá tra an toàn sinh học, bà con hãy tham khảo nhé.
Để đảm bảo cá tra đáp ứng được các tiêu chuẩn cho xuất khẩu, bà còn nên chú ý các khâu kỹ thuật nuôi cá tra như sau:
Mục lục
Vị trí nuôi
Ao nuôi phải nằm trong khu quy hoạch đã được các ngành chức năng phê duyệt.
Ao phải đảm bào đủ điều kiện giữ nước khi cần thiết. Ao đảm bảo dễ tháo, toát nước, nguồn nước phù hợp cho cá phát triển. Giao thông thuận lợi và cần đảm bảo về các chỉ tiêu hóa ly như: có độ pH từ 7-8. Mức độ oxy hòa tan >3mg/l, nồng độ N-NH3: 1mg/l.
Bên cạnh đó các chỉ tiêu kim loại nặng phải nằm trong giới hạn cho phép.
Thiết kế ao nuôi
Diện tích ao nuôi cá tra có thể lớn nhỏ tùy vào điều kiện từng hộ nuôi. Tuy nhiên diện tích nuôi tốt nhất theo phương pháp này là từ 0,5-1 ha. Bờ ao phải chắc chắn để giữ được nước trong mùa khô và chống tràn vào mùa lũ.
Yêu cầu theo phương pháp này là có hồ sơ ghi lại các điểm quan trọng. Nội dung bao gồm nơi cung cấp giống, thời gian mua và thả gống, nơi bán thức ăn, thuốc thú y và các hóa chất sử dụng. Mục đích là có thể tra rõ lại nguồn gốc khi cần thiết.
Thời vụ thả giống
Ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long có thể nuôi được quanh năm. Nhưng tốt nhất là nuôi 2 năm 3 vụ và giữa 2 vụ nuôi thì ao cần được cải tạo ao thật kỹ.
Giống phải có kích cở từ: 10 – 15cm (khoảng 10 – 12g/con).
Mật độ nuôi: từ 20 – 25 con/m2, tuỳ vào chất lượng nguồn nước nơi nuôi và tuỳ vào trình độ kỹ thuật của người nuôi.
Thức ăn
Trong nuôi cá tra thì thức ăn chiếm tỉ lệ rất lớn trong tổng chi phí nuôi. Và nó quyết định đến sự phát triển của cá và giá thành sản xuất.
Đối với thức ăn công nghiệp
Thức ăn công nghiệp là loại thức ăn dạng viên, đóng bao sẳn. Và hàm lượng các vật chất dinh dưỡng cũng được các nhà sản xuất tính sẳn. Để sử dụng thức ăn này có hiệu quả , người nuôi cần tuân thủ một số tiêu chí sau:
Chọn các công ty có uy tín và các công ty này được cấp giấy chứng nhận của các cơ quan có chức năng về nhãn mác hàng hoá cũng như chất lượng của sản phẩm.
Khi cho cá ăn thì phải dựa vào từng giai đoạn phát triển của cá nuôi:
- Thường ở 2 tháng đầu cần cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm khoảng 28 – 30%. Các tháng tiếp theo cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm khoảng 25 – 26% và 2 tháng cuối thì hàm lượng đạm cho cá chỉ khoảng 20 – 22% là được.
- Cho cá ăn mỗi ngày 2 lần: sáng từ 8 – 9 giờ, chiều lúc: 16 – 17 giờ. Khẩu phần cho cá ăn khoảng 2 – 3% trọng lượng đàn cá nuôi.
Thức ăn tự chế
Vì là thức ăn sẳn có ở địa phương nên khi chế biến cho cá ăn cần theo các tiêu chuẩn sau:
- Các nguyên liệu có nguồn gốc từ động như cá tạp, bột cá thì phải tươi và không bị nấm mốc. Các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật như: tấm, cám, đậu nành,… thì không bị nấm, mốc, mọt,…
- Không được bổ sung vào thức ăn các loại thuốc, hoá chất mà bộ thuỷ sản cấm sử dụng.
- Thường xuyên vệ sinh khu vực chế biến thức ăn cũng như các kho chưa thức ăn phải đặt nơi khô ráo sạch sẽ.
* Công thức pha trộn thức ăn tự chế:
Các loại cá tạp và tấm cần nấu chin. Sau đó để nguội và trộn tất cả các nguyên liệu trên với nhau. Đồng thời định kỳ 3 ngày bổ sung Vitamin C vào thức ăn với liều lượng 5g/100Kg thức ăn. Nhằm tăng cường sức đề kháng cho cá
.
Chăm sóc và quản lý ao nuôi
Chăm sóc và quản lý giúp định hướng ao nuôi phát triển bền vững và tốt nhất
Cách chăm sóc ao nuôi
- Cần có lịch cho cá ăn hàng ngày và phải tuân thủ đúng thời gian cho cá ăn. Khi cho cá ăn cần quan sát các hoạt động bắt mồi của cá. Nhằm giúp kịp thời điều chỉnh thức ăn.
- Thức ăn và liều lượng cho cá ăn cũng như hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn phải phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của cá.
- Không được sử dụng thức ăn quá hạn sử dụng, thức ăn kém chất lượng bị nấm mốc. Hay có chứa các kháng sinh và hoá chất cấm sử dụng của Bộ Thuỷ Sản.
Quản lý ao nuôi
- Phải lập sổ ghi chép đầy đủ các chi tiết như: ngày giờ cho cá ăn, lượng thức ăn. Nguồn gốc thức ăn, các nguyên liệu làm thức ăn, các hoá chất, thuốc sử dụng trộn vào thức ăn.
- Định kỳ kiểm tra các chỉ tiêu về chất lượng nước như: pH, Ôxy, N-NH3, H2S,… theo dõi tình trạng sức khoẻ của cá thông qua các hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá.
- Khi cá bị bệnh phải xử lý kịp thời như: làm các xét nghiệm mẫu cá bệnh trước khi chữa trị. Khi trị bệnh cho cá phải áp dụng các kỹ thuật đúng như: dùng đúng thuốc, liều lượng hợp lý, thời gian hợp lý,… theo hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Cá bị bệnh chết phải xử lý triệt để không để lây lan từ ao này sang ao khác.Cần ghi lại kết quả điều trị cho cá như: kết quả xét nghiệm, thời gian điều trị, loại thuốc điều trị, cách điều trị.
- Cần thay nước hàng ngày với lượng nước thay khoảng 20% – 30% tổng lượng nước trong ao. Nước thải trước khi cho ra môi trường bên ngoài phải có biện pháp xử lý làm sạch. Luôn duy trì chất lượng nước tốt dựa vào các chỉ tiêu thuỷ lý, thuỷ hoá phù hợp với nhu cầu phát triển của cá.
- Thường xuyên cập nhật các thông tin của các nghành chức năng như: Chi Cục Thuỷ Sản, Trung Tâm Khuyến Nông về giá cả thị trường cá nuôi. Các dự báo về môi trường nước nuôi, thời vụ nuôi thích hợp để điều chỉnh và bố trí lịch thời vụ nuôi thích hợp.
Thu hoạch
- Không được thu hoạch cá đang trong thời gian cá bệnh.
- Cần gửi mẫu đến cơ quan chức năng kiểm tra dư lượng thuốc, hoá chất trước khi thu hoạch.
- Ngừng sử dụng thuốc điều trị bệnh trước khi thu hoạch theo quy định của các ngành chức năng.
- Ngừng cho cá ăn thức ăn công nghiệp 1 ngày và nếu thức ăn tự chế thì ngừng cho cá ăn 2 ngày trước khi thu hoạch.
Thông tin thêm
Nuôi và chế biến cá tra có tầm quan trọng trong cả Việt Nam và cung cấp công ăn việc làm cho hàng vạn nông/công nhân. Ngành nuôi cá tra đang có đà phát triển mạnh, dù có ảnh hưởng ít nhiều của vụ kiện của Hoa Kỳ trước đây, và còn có điều kiện gia tăng trong tương lai.
Về mặt tiêu thụ, đối với Bắc Mỹ, cá tra đã là một loại thực phẩm quen thuộc, vì Bắc Mỹ cũng sản xuất cá nuôi da trơn nên việc tìm khách hàng tiêu thụ không gặp khó khăn. Đối với các châu lục khác, ngoài châu Á, người tiêu thụ còn bỡ ngỡ với món thực phẩm mới này, nhất là cá xác bụng (cá ba sa), người châu Âu khó chấp nhận vì thành phần mỡ cao. Trong thời gian tới, những loài chưa có mức sản xuất quy mô như cá bông lau, cá vồ đém, cá hú còn ở trong tình trạng thử nghiệm, sẽ là những bàn đạp để gia tăng tiêu thụ.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam có sản lượng cá tra và cá xác bụng (ba sa) là 400.000 tấn năm 2005. Còn nhiều tiềm năng tăng sản lượng.
Nguồn: kythuatnuoitrong.com