Bệnh thán thư trên cây đậu đỗ do nấm có tên khoa học là Colletotrichum lindemuthianum. Bệnh thán thư được phát hiện lần đầu tiên ở Châu Âu xuất hiện trên cây đậu đỗ. Hiện nay, bệnh rất phổ biến ở các vùng trồng đậu trên thế giới kể cả ở Việt Nam. Bệnh này gây hại rất nhiều ở những vùng nóng ẩm. Ở nước ta, bệnh này gây hại trên các vùng cây họ đậu, như đậu cô ve, đậu tương, đậu Hà Lan, đậu cô ve, đậu bở.
Bệnh thán thư trên cây đậu nành là bệnh phổ biến khắp các vùng trồng đậu nành trên thế giới. Nấm gây bệnh có phổ ký chủ rộng, gây hại trên các cây trồng thuộc họ đậu như đậu xanh, đậu đen, đậu phộng, đậu trạch, … làm giảm chất lượng hạt, hạt bị nhiễm bệnh hàm lượng các axit amin giảm.
Mục lục
Triệu chứng bệnh
Bệnh có thể phát hại từ giai đoạn nảy mầm cho đến thu hoạch. Trên lá mầm vết bệnh có hình tròn, màu nâu đen, hơi ướt và lõm. Vết bệnh trên thân có hình thoi dài, hơi lõm có màu nâu đỏ. Bệnh nặng cây con có thể chết rạp.
Trên lá thật, vết bệnh thường gây hại ở phần gân lá và phiến lá sát gân. Vết bệnh hình tròn hoặc không định hình có màu nâu, xung quanh viền nâu đỏ.
Trên vết bệnh có các chấm đen nhỏ li ti đó là các đĩa cành của nấm gây bệnh. Vết bệnh trên cuống lá và thân cành thường kéo dài, có màu nau sẫm, hơi lõm, bệnh có thể gây hại làm hoa rễ bị rụng.
Trên quả, vết bệnh có hình bầu dục hoặc hình tròn, có màu nâu vàng, hơi lõm, xung quanh có viền nâu đỏ. Trên vết bệnh hình thành nhiều đĩa cành xếp theo vòng tròn đồng tâm hoặc xếp lộn xộn. Nấm gây bệnh có thể gây hại cả hạt, trên hạt vết bệnh là các chấm nhỏ màu nâu hoặc màu đen.
Nguyên nhân gây bệnh
Nấm gây bệnh là Colletotrichum lindemuthianum.
Sợi nấm đa bào, phân nhánh, có màu nâu nhạt. Đĩa cành của nấm gây bệnh có lông gai màu đen, đa bào, có từ 1 – 4 ngăn ngang, kích thước 40 – 110 x 4 – 6 micromet.
Cành bào tử phân sinh không mà, ngắn, đơn bào. Bào tử phân sinh không màu đơn bào, hình bầu dục, thẳng hoặc hơi cong, kích thước 10,5 – 23 x 3,5 – 6,6 micromet. Nấm tồn tại chủ yếu ở dạng sợi nấm, nấm tồn tại trên hạt giống và trên tài dư bệnh.
Sợi nấm có thể tồn tại trong nội nhũ và trong phôi hạt thời gian khoảng 2 năm.
Đặc điểm phát sinh phát triển
Bệnh phá hại nặng trong điều kiện ẩm độ không khí cao trên 80%, nhiệt độ 16 – 20 độ C.
Bào tử nấm nảy mầm trong phạm vi nhiệt độ 4 – 34 độ C, thích hợp nhất ở nhiệt độ 22 – 23 độ C. Trong điều kiện nhiệt độ và ẩm độ thuận lợi thời kỳ tiềm dục của bệnh là 4 – 7 ngày.
Ở nước ta, bệnh thường phát sinh mạnh trên những chân ruộng trũng, thoát nước kém.
Biện pháp phòng trừ
Sử dụng các giống chống bệnh, giống sạch bệnh. Lấy giống từ những ruộng không bị nhiễm bệnh và từ các cây khỏe, sạch bệnh.Dọn sạch tàn dư bệnh; đem đốt hoặc chôn sâu; cày sâu để vùi lấp tàn dư cây bệnh; bón phân cân đối giữa N, P, K.
Thực hiện luân canh 2 – 3 năm với cây trồng nước ở những chân ruộng bị nhiễm nặng. Vun luống cao thoát nước tốt, đảm bảo mật độ thích hợp.
Xử lý bằng thuốc hóa học có khả năng thấm sâu để diệt sợi nấm; Khi đậu đỗ chớm xuất hiện bệnh cần phun thuốc hóa học như Zineb 80WP 0,4%, Daconil 50WP và 75 WP nồng độ 0,125 – 0,25%; Baycor 25WP; Score 250 ND; Daconil 50WP. Các hoạt chất tiêu biểu để diệt nấm gây thán thư trên xoài như: Zineb, Chlorothalonil, Azoxystrobin, Difenoconazole + Tricylazole.
Nguồn: Camnangcaytrong.com