Việc tăng trưởng và sản lượng cá giảm, tăng chi phí cho ăn do chán ăn và lãng phí thức ăn thừa. Tăng khả năng dễ bị ăn thịt. Tăng tính nhạy cảm với chất lượng nước thấp gây chết cá. Mặc dù có thể khó tránh khỏi hoàn toàn các bệnh cho cá, nhưng tốt hơn hết là bạn nên cố gắng ngăn chặn sự xuất hiện của chúng hơn là để chúng phát triển và sau đó cố gắng phòng bệnh cho cá trước khi chúng bắt đầu gây ra vấn đề.
Để chữa bệnh cho cá khó hơn nhiều và thường phải nhờ đến dịch vụ của bác sĩ chuyên khoa. Vào thời điểm điều trị thích hợp có thể được tổ chức, bệnh có thể đã trở nên nghiêm trọng hơn. Trong một số trường hợp, cá sống sót bị suy yếu đến mức khó điều trị hiệu quả.
Khác với các vật nuôi trên cạn, khi cá bị bệnh việc phát hiện và chẩn đoán bệnh gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức kỹ thuật và kinh nghiệm. Khi đã phát hiện được bệnh của cá thì việc điều trị bệnh cũng không đơn giản và dễ dàng, không phải điều trị từng con.
Mà đơn vị bé nhất là ao. Mặt khác, khi trị bệnh cá không phải lúc nào cũng có kết quả như ta mong muốn và ít nhiều đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cá, ảnh hưởng đến thức ăn tự nhiên và môi trường nước. Ngoài ra, một số thuốc có thể tích lũy trong cơ thể cá và có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Chính vì vậy trong quá trình nuôi cá nước ngọt việc phòng bệnh ở cá vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lâu dài và quyết định.
Mục lục
Các biện pháp phòng bệnh
Phòng bệnh tức là áp dụng các biện pháp để tránh đưa mầm bệnh từ ngoài vào ao nuôi hoặc ngăn ngừa mầm bệnh phát triển trong ao như chăm sóc và cho cá ăn đầy đủ (chất và lượng) để cá khỏe mạnh có sức đề kháng tốt với bệnh, gồm 3 biện pháp: biện pháp quản lý môi trường và kỹ thuật nuôi; biện pháp sinh học; biện pháp dùng thuốc và hóa chất để phòng bệnh cho cá.
Đối với biện pháp quản lý môi trường và kỹ thuật nuôi, cần thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật nuôi, sau mỗi vụ nuôi, cần vét ao, bón vôi (10-15kg/100m2), phơi đáy ao 3-5 ngày, nhằm diệt mầm bệnh, kiềm hóa môi trường và diệt tạp. Nước ao nuôi cá phải lấy từ nguồn nước sạch, không bị nhiễm bẫn (từ chất thải nông nghiệp, chất thải công nghiệp…). Bên cạnh đó, cá thả nuôi phải là cá khỏe mạnh, mật độ ương nuôi vừa phải.
Biện pháp sinh học là biện pháp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể cá, giúp cá có khả năng chống lại các yếu tố gây bệnh từ bên ngoài môi trường. Người nuôi cần cho cá ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, nhất là giai đoạn cá còn nhỏ thì phải đặc biệt lưu ý khi chuyển tính ăn. Cho cá ăn theo phương pháp “4 định”: Định chất lượng thức ăn (thức ăn phải tươi, sạch sẽ, thành phần dinh dưỡng thích hợp). Định số lượng thức ăn (dựa vào trọng lượng cá nuôi để tính lượng thức ăn). Định vị trí cho ăn (cho cá ăn một nơi cố định để cá có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định); Định thời gian cho ăn (hàng ngày cho cá ăn 2 lần).
Lưu ý khi chữa bệnh cho cá
Đối với biện pháp dùng thuốc và hóa chất để phòng bệnh, dụng cụ của nghề nuôi nên dùng riêng biệt từng ao. Nếu thiếu thì sau đó khi sử dụng xong phải có biện pháp. Khử trùng trước khi sử dụng cho ao khác. Dụng cụ đánh bắt bằng gỗ, quần áo khi lội ao phải dùng dung dịch TCCA 20 g/m3. Thuốc tím KMnO4 10-12 g/m3 để ngâm ít nhất 1 giờ và rửa sạch mới dùng.
Xác cá bệnh và nước thải từ bể cá bệnh cần được xử lý bằng Chlorine. Trước khi thải ra môi trường ngoài để tránh mầm bệnh lây lan cho những vụ nuôi kế tiếp và các ao nuôi lân cận. Ngoài ra, người nuôi cần bổ sung thêm các loại vitamin và khoáng chất tăng cường sức đề kháng cho cơ thể cá.
Nuôi cá nước ngọt thường gặp phải một số bệnh rất khó phát hiện và xử lý. Ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Nếu quản lý nguồn nước và thức ăn không tốt. Rất dễ phát sinh dịch bệnh trên cá dẫn đến cá chết hàng loạt. Sau đây là phương pháp trị một số loại bệnh trên cá nước ngọt.
Bệnh nấm thủy mi
Bệnh nấm thuỷ mi do một số giống nấm như: Leptolegnia, Aphanomices, Sarolegnia, Achlya gây ra. Khi mắc bệnh, trên da cá lúc đầu có các vùng trắng xám, đó là các sợi nấm nhỏ mềm; sau đó nấm phát triển thành các búi trắng như bông. Để trị bệnh, người nuôi dùng thuốc diệt nấm cho cá. Đối với cá bệnh, có thể dùng một số hóa chất để trị bệnh nấm thủy mi. Methylen 2 – 3g/m3, KMnO4 1 – 2g/m3 và lặp lại 2 lần trong 1 tuần.
Hội chứng lở loét
Hội chứng lở loét của cá do nấm Alphanomyces Invadan phát triển len lỏi ăn sâu vào trong thịt cá. Hoặc do virut, vi khuẩn, ký sinh trùng gây ra. Khi mắc bệnh, trên thân cá có các vết lở loét ăn rất sâu vào cơ thể và gây cho cá chết đồng loạt. Để trị bệnh, người nuôi bón 4 – 5 kg vôi cho 100m3 nước ao.
Bệnh thích bào tử trùng
Bệnh thích bào tử trùng do thích bào tử trùng thuộc giống Myxobollus.Thelohanellus, Henneguya gây ra. Khi nhiễm bệnh, cá bơi lội không bình thường, dị hình cong đuôi kém ăn. Khi bị bệnh nặng, trên da, mang cá có nhiều bào nang to bằng hạt tấm. Màu trắng đục. Nắp mang bị kênh, gây cho cá khó hô hấp, thậm chí làm cá chết. Cá chép, trôi, mè, bống tượng, tra… rất dễ mắc bệnh này. Thường vào mùa xuân và đầu hè. Hiện nay chưa có thuốc trị bệnh hữu hiệu.
Bệnh trùng bánh xe
Bệnh trùng bánh xe do trùng bánh xe thuộc giống Trichodina, Trichodinella, Tripartiella gây ra. Khi bị bệnh, cá bơi lội không định hướng. Nổi từng đàn trên mặt nước, da màu xám. Cá bị bệnh nhẹ sẽ ngứa ngáy, gầy yếu. Cá bị bệnh nặng trên thân có nhiều nhớt màu trắng đục. Mang bạc trắng, sau đó chết. Tất cả các loại cá đều dễ mắc bệnh này, thường vào mùa xuân và thu. Để trị bệnh, người nuôi nếu có điều kiện nên thay toàn bộ nước trong ao đồng thời khử trùng nước thay, tắm cá trong dung dịch formalin 200 – 300mg/m3 trong vòng 30 – 60 phút.
Bệnh trùng quả dưa
Bệnh trùng quả dưa (bệnh đốm trắng), do loài trùng qủa dưa Ichthyophthirius multifiliis gây ra. Khi mắc bệnh, cá bơi nổi thành từng đàn trên mặt nước. Quẫy nhiều do ngứa ngáy. Trên da, mang, vây của cá có nhiều trùng bám thành các hạt lấm tấm rất nhỏ màu trắng đục. Có thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Da mang cá bị bệnh có nhiều nhợt, màu sắc nhợt nhạt. Khi đã quá yếu cá chỉ còn ngoi đầu lên để thở, đuôi bất động cắm đầu xuống nước. Để trị bệnh, người nuôi dùng formalin để phun xuống ao mỗi tuần 2 lần. Với nồng độ 150 – 200 ml/m3 sau đó tiến hành thay nước. Hoặc tắm formalin cho cá với nồng độ 200 – 250 ml/m3 trong vòng 30 – 60 phút.
Việc tăng trưởng và sản lượng cá giảm, tăng chi phí cho ăn do chán ăn và lãng phí thức ăn thừa. Tăng khả năng dễ bị ăn thịt. Tăng tính nhạy cảm với chất lượng nước thấp gây chết cá. Mặc dù có thể khó tránh khỏi hoàn toàn các bệnh cho cá, nhưng tốt hơn hết là bạn nên cố gắng ngăn chặn sự xuất hiện của chúng hơn là để chúng phát triển và sau đó cố gắng phòng bệnh cho cá trước khi chúng bắt đầu gây ra vấn đề.
Phòng bệnh cho cá phần hai
Khác với các vật nuôi trên cạn, khi cá bị bệnh việc phát hiện và chẩn đoán bệnh gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức kỹ thuật và kinh nghiệm. Khi đã phát hiện được bệnh của cá thì việc điều trị bệnh cũng không đơn giản và dễ dàng, không phải điều trị từng con.
Mà đơn vị bé nhất là ao. Mặt khác, khi trị bệnh cá không phải lúc nào cũng có kết quả như ta mong muốn và ít nhiều đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cá, ảnh hưởng đến thức ăn tự nhiên và môi trường nước. Ngoài ra, một số thuốc có thể tích lũy trong cơ thể cá và có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Chính vì vậy trong quá trình nuôi cá nước ngọt việc phòng bệnh ở cá vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lâu dài và quyết định.
Chăm sóc cá bị bệnh thế nào
Phòng bệnh tức là áp dụng các biện pháp để tránh đưa mầm bệnh từ ngoài vào ao nuôi hoặc ngăn ngừa mầm bệnh phát triển trong ao như chăm sóc và cho cá ăn đầy đủ (chất và lượng) để cá khỏe mạnh có sức đề kháng tốt với bệnh, gồm 3 biện pháp: biện pháp quản lý môi trường và kỹ thuật nuôi; biện pháp sinh học; biện pháp dùng thuốc và hóa chất để phòng bệnh cho cá.
Đối với biện pháp quản lý môi trường và kỹ thuật nuôi, cần thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật nuôi, sau mỗi vụ nuôi, cần vét ao, bón vôi (10-15kg/100m2), phơi đáy ao 3-5 ngày, nhằm diệt mầm bệnh, kiềm hóa môi trường và diệt tạp. Nước ao nuôi cá phải lấy từ nguồn nước sạch, không bị nhiễm bẫn (từ chất thải nông nghiệp, chất thải công nghiệp…). Bên cạnh đó, cá thả nuôi phải là cá khỏe mạnh, mật độ ương nuôi vừa phải.
Biện pháp sinh học là biện pháp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể cá, giúp cá có khả năng chống lại các yếu tố gây bệnh từ bên ngoài môi trường. Người nuôi cần cho cá ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, nhất là giai đoạn cá còn nhỏ thì phải đặc biệt lưu ý khi chuyển tính ăn. Cho cá ăn theo phương pháp “4 định”: Định chất lượng thức ăn (thức ăn phải tươi, sạch sẽ, thành phần dinh dưỡng thích hợp). Định số lượng thức ăn (dựa vào trọng lượng cá nuôi để tính lượng thức ăn). Định vị trí cho ăn (cho cá ăn một nơi cố định để cá có thói quen đến ăn tập trung tại một điểm nhất định); Định thời gian cho ăn (hàng ngày cho cá ăn 2 lần).
Trị bệnh cho cá
Đối với biện pháp dùng thuốc và hóa chất để phòng bệnh, dụng cụ của nghề nuôi nên dùng riêng biệt từng ao. Nếu thiếu thì sau đó khi sử dụng xong phải có biện pháp. Khử trùng trước khi sử dụng cho ao khác. Dụng cụ đánh bắt bằng gỗ, quần áo khi lội ao phải dùng dung dịch TCCA 20 g/m3. Thuốc tím KMnO4 10-12 g/m3 để ngâm ít nhất 1 giờ và rửa sạch mới dùng.
Xác cá bệnh và nước thải từ bể cá bệnh cần được xử lý bằng Chlorine. Trước khi thải ra môi trường ngoài để tránh mầm bệnh lây lan cho những vụ nuôi kế tiếp và các ao nuôi lân cận. Ngoài ra, người nuôi cần bổ sung thêm các loại vitamin và khoáng chất tăng cường sức đề kháng cho cơ thể cá.
Nuôi cá nước ngọt thường gặp phải một số bệnh rất khó phát hiện và xử lý. Ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế. Nếu quản lý nguồn nước và thức ăn không tốt. Rất dễ phát sinh dịch bệnh trên cá dẫn đến cá chết hàng loạt. Sau đây là phương pháp trị một số loại bệnh trên cá nước ngọt.
Bệnh nấm thủy mi
Bệnh nấm thuỷ mi do một số giống nấm như: Leptolegnia, Aphanomices, Sarolegnia, Achlya gây ra. Khi mắc bệnh, trên da cá lúc đầu có các vùng trắng xám, đó là các sợi nấm nhỏ mềm; sau đó nấm phát triển thành các búi trắng như bông. Để trị bệnh, người nuôi dùng thuốc diệt nấm cho cá. Đối với cá bệnh, có thể dùng một số hóa chất để trị bệnh nấm thủy mi. Methylen 2 – 3g/m3, KMnO4 1 – 2g/m3 và lặp lại 2 lần trong 1 tuần.
Hội chứng lở loét
Hội chứng lở loét của cá do nấm Alphanomyces Invadan phát triển len lỏi ăn sâu vào trong thịt cá. Hoặc do virut, vi khuẩn, ký sinh trùng gây ra. Khi mắc bệnh, trên thân cá có các vết lở loét ăn rất sâu vào cơ thể và gây cho cá chết đồng loạt. Để trị bệnh, người nuôi bón 4 – 5 kg vôi cho 100m3 nước ao.
Bệnh thích bào tử trùng
Bệnh thích bào tử trùng do thích bào tử trùng thuộc giống Myxobollus.Thelohanellus, Henneguya gây ra. Khi nhiễm bệnh, cá bơi lội không bình thường, dị hình cong đuôi kém ăn. Khi bị bệnh nặng, trên da, mang cá có nhiều bào nang to bằng hạt tấm. Màu trắng đục. Nắp mang bị kênh, gây cho cá khó hô hấp, thậm chí làm cá chết. Cá chép, trôi, mè, bống tượng, tra… rất dễ mắc bệnh này. Thường vào mùa xuân và đầu hè. Hiện nay chưa có thuốc trị bệnh hữu hiệu.
Bệnh trùng bánh xe
Bệnh trùng bánh xe do trùng bánh xe thuộc giống Trichodina, Trichodinella, Tripartiella gây ra. Khi bị bệnh, cá bơi lội không định hướng. Nổi từng đàn trên mặt nước, da màu xám. Cá bị bệnh nhẹ sẽ ngứa ngáy, gầy yếu. Cá bị bệnh nặng trên thân có nhiều nhớt màu trắng đục. Mang bạc trắng, sau đó chết. Tất cả các loại cá đều dễ mắc bệnh này, thường vào mùa xuân và thu. Để trị bệnh, người nuôi nếu có điều kiện nên thay toàn bộ nước trong ao đồng thời khử trùng nước thay, tắm cá trong dung dịch formalin 200 – 300mg/m3 trong vòng 30 – 60 phút.
Bệnh trùng quả dưa
Bệnh trùng quả dưa (bệnh đốm trắng), do loài trùng qủa dưa Ichthyophthirius multifiliis gây ra. Khi mắc bệnh, cá bơi nổi thành từng đàn trên mặt nước. Quẫy nhiều do ngứa ngáy. Trên da, mang, vây của cá có nhiều trùng bám thành các hạt lấm tấm rất nhỏ màu trắng đục. Có thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Da mang cá bị bệnh có nhiều nhợt, màu sắc nhợt nhạt. Khi đã quá yếu cá chỉ còn ngoi đầu lên để thở, đuôi bất động cắm đầu xuống nước. Để trị bệnh, người nuôi dùng formalin để phun xuống ao mỗi tuần 2 lần. Với nồng độ 150 – 200 ml/m3 sau đó tiến hành thay nước. Hoặc tắm formalin cho cá với nồng độ 200 – 250 ml/m3 trong vòng 30 – 60 phút.
Nguồn: Tepbac.com